• :
  • :
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Góc nhìn từ chủ trương, thể chế, thực trạng, năng lực nội tại

Trên cơ sở phân tích vai trò thiết yếu của kinh tế tư nhân (KTTN) như trụ cột quan trọng hàng đầu của nền kinh tế Việt Nam theo Nghị quyết 68-NQ/TW và các chính sách gần đây. Từ thực trạng, bài viết chỉ ra những "nút thắt" về thể chế, điểm nghẽn cố hữu (vốn, đất đai, công nghệ, thủ tục hành chính), môi trường kinh doanh; năng lực nội tại của doanh nghiệp và trách nhiệm của các chủ thể liên quan. Đồng thời, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi, nhằm hiện thực hóa mục tiêu phát triển đột phá khu vực KTTN của Đảng, Nhà nước.

Kinh tế tư nhân – Trụ cột chiến lược và động lực phát triển:

Bối cảnh và yêu cầu phát triển KTTN trong giai đoạn mới

KTTN ở Việt Nam đã có sự đã phát triển vượt bậc sau gần bốn thập kỷ đổi mới, khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng. Từ vai trò thứ yếu, KTTN trở thành bộ phận quan trọng của nền kinh tế, đóng góp khoảng 50% GDP và sử dụng 82% tổng số lao động, tạo nhiều việc làm và ổn định an sinh xã hội.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập sâu rộng và bùng nổ Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư, đổi mới, sáng tạo, chuyển đổi số…, KTTN đang đứng trước cả cơ hội và thách thức rất lớn. Bên cạnh đó, các hiệp định thương mại thế hệ mới mở ra thị trường với đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm. Cùng với những căng thẳng địa chính trị, biến đổi khí hậu và cú sốc kinh tế bất ngờ đòi hỏi KTTN phải có sức chống chịu và khả năng thích ứng linh hoạt.

Việt Nam đặt mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045. Vì vậy, KTTN với bản chất năng động và khả năng đổi mới sáng tạo, được kỳ vọng là động lực chính yếu và sẽ có bước phá phát triển đột phá về quy mô, chất lượng và nâng cao năng lực cạnh tranh toàn cầu.

Chủ trương, cơ chế, chính sách hỗ trợ KTTN phát triển

Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị (4/5/2025) có ý nghĩa chiến lược, xác định KTTN là “trụ cột và động lực quan trọng hàng đầu của nền kinh tế quốc dân”. Đây là bước chuyển căn bản trong định hướng phát triển kinh tế của Đảng, khẳng định vị trí trung tâm của KTTN trong chiến lược phát triển bền vững đất nước. 

Để thể chế hóa chủ trương của Đảng nêu trên, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành hàng loạt chính sách trọng điểm như Nghị quyết số 198/2025/QH15, các Nghị quyết 138, 139, 140/NQ-CP, cùng 28 nghị định về phân cấp, phân quyền. Các chính sách tập trung vào giải quyết các điểm nghẽn lớn về tiếp cận vốn, đất đai, chuyển giao công nghệ, nguồn nhân lực, môi trường kinh doanh và cải cách thủ tục hành chính.

Đặc biệt, chính quyền địa phương theo mô hình 2 cấp đã chính thức đi vào hoạt động, gắn với phân cấp và phân quyền mạnh mẽ, hiệu quả, được kỳ vọng tạo điều kiện căn bản để tăng tốc giải quyết thủ tục và giảm chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp.

Thực trạng và những điểm nghẽn cần tháo gỡ

Mặc dù đã chuyển đổi tư duy từ "quản lý" sang "kiến tạo, phục vụ", việc thực thi chính sách vẫn còn nhiều thách thức:

1. Thể chế và môi trường kinh doanh: Thể chế pháp luật bất cập, thiếu đồng bộ; quy định, thủ tục chồng chéo, chưa phù hợp thông lệ quốc tế, gây khó khăn, tăng chi phí tuân thủ[1]. Nhiều luật quan trọng liên quan KTTN chưa hoàn thiện đồng bộ. Môi trường kinh doanh còn tiềm ẩn rủi ro (thủ tục hành chính, thuế, đất đai). Chi phí tuân thủ cao, ảnh hưởng năng lực cạnh tranh. Hệ sinh thái hỗ trợ khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo còn phân tán, thiếu kết nối, thiếu cơ chế tài chính bền vững. Các chính sách hỗ trợ triển khai chưa đầy đủ, thiếu theo dõi, giám sát. Khảo sát 2024 cho thấy, gần 74% doanh nghiệp gặp khó khăn tiếp cận đất đai do vướng mắc thủ tục và quy hoạch[2].

2. Năng lực thực thi của hệ thống hành chính: Hướng dẫn chính sách chậm, thiếu đồng bộ. Phối hợp liên ngành chưa chặt chẽ. Nhiều địa phương thiếu chủ động, còn tâm lý “chờ hướng dẫn”, trách nhiệm thực thi còn hạn chế. Chất lượng cán bộ chưa đồng đều (chuyên môn, trách nhiệm, thái độ phục vụ). Hạ tầng công nghệ thông tin và ứng dụng chuyển đổi số ở nhiều địa phương còn hạn chế, ảnh hưởng tốc độ giải quyết thủ tục[3]. Sự chủ động, linh hoạt trong xây dựng chính sách đặc thù chưa cao, còn tâm lý chờ đợi.

3. Năng lực nội tại và trách nhiệm của doanh nghiệp tư nhân:

- Phần lớn KTTN là DNNVV (gần 98%), khả năng cạnh tranh và đổi mới sáng tạo yếu, công nghệ lạc hậu, khó tiếp cận nguồn vốn ưu đãi. Năng lực quản trị yếu kém (kiểu gia đình, thiếu chiến lược, không chuyên nghiệp).

Tỷ lệ chi cho nghiên cứu phát triển (R&D) rất thấp, khiến KTTN khó tạo sản phẩm giá trị gia tăng cao và tham gia sâu chuỗi giá trị toàn cầu.

- Thiếu liên kết chặt chẽ giữa KTTN với nhau và với doanh nghiệp nhà nước, FDI. KTTN chủ yếu hoạt động độc lập, ít tham gia chuỗi cung ứng lớn, giảm khả năng học hỏi, chuyển giao công nghệ. Dù Chính phủ khuyến khích liên kết (hỗ trợ công nghiệp phụ trợ[4]), hình thành chuỗi giá trị bền vững vẫn khó khăn do niềm tin chưa cao, thông tin thị trường thiếu minh bạch.

- Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Nhiều doanh nghiệp chưa chú trọng vấn đề môi trường, quyền lợi người lao động, đóng góp cộng đồng. Đây là yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp xây dựng uy tín, nâng cao giá trị thương hiệu và phát triển bền vững.

Về thách thức và cơ hội phát triển đột phá KTTN

a) Thách thức: Sức ép cạnh tranh từ FDI, doanh nghiệp lớn; thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao; biến động thị trường và rủi ro chính sách; khó khăn trong tiếp cận thông tin và pháp lý.

b) Cơ hội: Chính sách hỗ trợ mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước; tiềm năng thị trường nội địa lớn; xu hướng đổi mới, sáng tạo, chuyển đổi số và Cách mạng Công nghiệp 4.0; hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng; cơ chế phân cấp, phân quyền mạnh mẽ hơn.

Một số giải pháp nâng cao trách nhiệm, năng lực thực thi của các chủ thể

Để KTTN trở thành trụ cột và động lực hàng đầu, cần nâng cao trách nhiệm và năng lực thực thi nội tại của cả hệ thống chính trị và khu vực KTTN:

- Nâng cao nhận thức và trách nhiệm các cấp: Quán triệt sâu rộng chủ trương, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, xử lý nghiêm biểu hiện thờ ơ, thiếu trách nhiệm.

- Hoàn thiện thể chế, pháp luật[5]: Rà soát, sửa đổi, bổ sung luật và văn bản dưới luật liên quan (kinh doanh, đầu tư, đất đai, thuế, tín dụng) đảm bảo đồng bộ, minh bạch, khả thi. Đẩy nhanh ban hành văn bản hướng dẫn, thực hiện hiệu quả quản lý thuế kinh doanh số.

- Đổi mới công cụ tài chính, tín dụng: Tăng khả năng tiếp cận vốn cho DNNVV qua chính sách tín dụng linh hoạt, ưu đãi. Cung cấp miễn phí nền tảng số, phần mềm kế toán dùng chung. Khuyến khích tổ chức tín dụng đa dạng sản phẩm, phát triển quỹ bảo lãnh tín dụng.

- Thúc đẩy chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo: Hoàn thành Chương trình hỗ trợ chuyển đổi số. Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư R&D (tính 200% chi phí R&D vào chi phí được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp[6]).

- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và quản trị doanh nghiệp: Triển khai Chương trình đào tạo giám đốc điều hành, cung cấp miễn phí tư vấn pháp lý, đào tạo quản trị cho doanh nghiệp nhỏ. Khuyến khích giáo dục gắn kết với doanh nghiệp để đào tạo nhân lực theo nhu cầu thị trường.

- Tăng cường kết nối, hợp tác giữa các thành phần kinh tế: Hình thành mạng lưới liên kết giữa KTTN – DNNN – FDI; thiết lập chuỗi giá trị ngành theo vùng; hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp lớn khi đặt hàng, chuyển giao công nghệ; xây dựng nền tảng logistics và dữ liệu mở kết nối doanh nghiệp.

- Phát huy vai trò của các hiệp hội, ngành nghề: Khuyến khích hiệp hội tăng cường tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp và tham gia xây dựng chính sách. Xây dựng cộng đồng doanh nghiệp tư nhân đoàn kết, có trách nhiệm xã hội cao, thúc đẩy đối thoại để giải quyết vướng mắc.

Để hiện thực hóa các chủ trương, chính sách phát triển KTTN của Đảng và Nhà nước, cần sự chung sức của cả hệ thống chính trị và cộng đồng doanh nghiệp. Nhà nước giữ vai trò kiến tạo, đồng hành; doanh nghiệp tư nhân chủ động nâng cao năng lực, chất lượng, khả năng cạnh tranh và phát huy trách nhiệm. Khi các giải pháp triển khai đồng bộ, KTTN sẽ thực sự trở thành trụ cột và động lực quan trọng hàng đầu của nền kinh tế, góp phần đưa Việt Nam vươn tới mục tiêu trở thành nước phát triển vào năm 2045./.

[1] Nghị quyết 124/NQ-CP ngày 8/5/2025 Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4/2025.

[2] (vietnamnet.vn). (2025). Các tác giả: Tư Giang; Lan Anh. Tiếp cận đất đai – câu chuyện khó như lên trời của doanh nghiệp Việt. Ngày 4/6/2025.

[3] Quyết định số 12/QĐ-BKHĐT ngày 7/1/2021 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

[4] Nghị quyết số 124/NQ-CP ngày 8/5/2025 về Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4/2025.

[5] Nghị quyết số 140/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ: Ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

[6] Nghị quyết số 139/NQ-CP của Chính phủ: Ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển KTTN.


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Bài viết liên quan

Nội dung đang cập nhật...