Phân tích khoa học về mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Trong bối cảnh thế giới biến động nhanh chóng, Việt Nam đang đứng trước thời cơ và thách thức lớn trong hành trình hướng tới mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045. Tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức khá, song vẫn bộc lộ nhiều hạn chế về năng suất, cơ cấu ngành, chất lượng lao động và sức chống chịu trước các cú sốc toàn cầu
Tại Hội thảo quốc tế chủ đề “Động lực cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong kỷ nguyên mới” do Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam phối hợp với Trường Đại học Kinh tế – Đại học Quốc gia Hà Nội vừa tổ chức, Tiến sĩ Lê Xuân Sang, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới phân tích, mô hình tăng trưởng của Việt Nam lâu nay dựa nhiều vào vốn, lao động giá rẻ và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), trong khi đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) còn hạn chế. Thực tế, giai đoạn 2001–2023, vai trò của TFP suy giảm, cho thấy tăng trưởng chưa thực sự dựa vào đổi mới sáng tạo. Trong bối cảnh đại dịch, xung đột địa chính trị và biến đổi khí hậu, sức chống chịu của nền kinh tế Việt Nam bộc lộ những điểm yếu, nhất là về quản trị nhà nước, hiệu quả thị trường tài chính và khả năng liên kết FDI với khu vực trong nước.
Theo Tiến sĩ Lê Xuân Sang, nếu không nhanh chóng chuyển sang mô hình dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, Việt Nam sẽ khó đạt mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững. Do đó cần phải thực hiện năm nhóm giải pháp, duy trì an toàn tài chính vĩ mô, có kịch bản ứng phó cú sốc; cải cách bộ máy, nâng cao minh bạch, trách nhiệm giải trình; tăng hiệu quả thị trường vốn, chứng khoán và bất động sản; thúc đẩy liên kết FDI với doanh nghiệp nội địa, phát triển công nghiệp tái tạo; củng cố niềm tin xã hội, phát huy vốn xã hội, nâng cao chất lượng nhân lực.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Quỳnh Trang, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, tăng trưởng GDP của Việt Nam những năm gần đây chịu sức ép lớn từ suy giảm toàn cầu và căng thẳng thương mại. Trong nước, tiêu dùng hộ gia đình phục hồi chậm sau đại dịch, đầu tư tư nhân gặp khó khăn do chi phí vốn cao, trong khi giải ngân đầu tư công chưa đạt kỳ vọng. Về dài hạn, năng lực sản xuất còn yếu, hạ tầng thiếu đồng bộ, năng suất lao động và TFP thấp.
Tiến sĩ Nguyễn Quỳnh Trang cảnh báo, nếu không cải thiện nhanh chất lượng đầu tư và nguồn nhân lực, Việt Nam sẽ đối mặt với nguy cơ tụt hậu khi cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển dịch xanh trở thành tiêu chuẩn phát triển toàn cầu. Do đó cần hỗ trợ tiêu dùng nội địa bằng chính sách thuế và tín dụng; đẩy nhanh giải ngân đầu tư công để tạo hiệu ứng lan tỏa; hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu tiếp cận vốn, logistics, xúc tiến thương mại; đồng thời nâng cao chất lượng lao động qua đào tạo nghề, kỹ năng số và công nghệ cao.
Ngoài ra, phải coi việc phát triển hạ tầng chiến lược, từ giao thông, logistics, năng lượng sạch đến hạ tầng số là trụ cột để nâng cao sức cạnh tranh quốc gia. Chỉ khi chi phí logistics giảm, hệ thống năng lượng ổn định, hạ tầng số phủ rộng thì mới tạo nền tảng cho các ngành kinh tế mới phát triển.
Tiến sĩ Đặng Hải Anh, chuyên gia Ngân hàng Thế giới, chỉ ra vai trò của hệ thống an sinh xã hội trong thúc đẩy tăng trưởng. Cho đến nay, Việt Nam đã đạt tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế gần như toàn dân, song vẫn còn khoảng cách trong tiếp cận bảo hiểm xã hội và thất nghiệp giữa các vùng, nhóm thu nhập. Lao động phi chính thức còn chiếm tỷ lệ cao, năng suất thấp và dễ bị tổn thương trước biến động. Nếu không mở rộng độ bao phủ và nâng cao chất lượng hệ thống bảo trợ xã hội, nền kinh tế sẽ đối diện rủi ro mất ổn định, đặc biệt khi dân số đang già hóa nhanh.
Do đó, cần coi chính sách an sinh xã hội không chỉ là công cụ bảo vệ mà còn là động lực thúc đẩy tăng trưởng. Việc mở rộng đối tượng hưởng bảo hiểm, tăng cường đào tạo nghề, áp dụng tiêu chuẩn lao động quốc tế sẽ giúp nâng cao năng suất, cải thiện điều kiện làm việc và giảm bất bình đẳng. Đây cũng là cách để bảo đảm phát triển bao trùm, gắn kết xã hội, nền tảng quan trọng cho ổn định vĩ mô và thu hút đầu tư lâu dài.
Tiến sĩ Đặng Hải Anh cũng đề xuất, trong bối cảnh Việt Nam đang tiến nhanh tới xã hội già hóa, cần thiết kế lại chính sách hưu trí, bảo hiểm thất nghiệp và trợ cấp xã hội theo hướng linh hoạt hơn, đáp ứng nhu cầu của cả người lao động chính thức và phi chính thức. Việc xây dựng cơ chế khuyến khích tham gia bảo hiểm tự nguyện, kết hợp hỗ trợ từ ngân sách, sẽ góp phần mở rộng diện bao phủ và giảm gánh nặng ngân sách trong dài hạn./.
Lý Thanh Hương