Tận dụng thời cơ phát triển công nghệ vũ trụ
Không gian vũ trụ đang giữ vai trò chiến lược ngày càng quan trọng trong đời sống chính trị, kinh tế, quốc phòng và an ninh toàn cầu. Vì vậy, việc nghiên cứu, phát triển và làm chủ công nghệ vũ trụ (CNVT) được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của khoa học-công nghệ (KHCN) Việt Nam, nhằm tạo nguồn lực cho phát triển kinh tế, bảo đảm an ninh quốc gia. Với những nền tảng bước đầu và chính sách hỗ trợ kịp thời, CNVT nước ta đang đứng trước thời cơ lớn để bứt phá.
Thành quả bước đầu và những thách thức đặt ra
CNVT là ngành công nghệ cao, tích hợp từ nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, phục vụ chế tạo và ứng dụng các phương tiện như vệ tinh, tàu vũ trụ, tên lửa đẩy, trạm mặt đất... để khai thác và sử dụng không gian vì lợi ích của con người. Ngày nay, CNVT đã được ứng dụng rộng rãi, mang lại hiệu quả thiết thực trong nhiều lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, quốc phòng và an ninh, không chỉ ở các cường quốc mà cả những quốc gia đang phát triển.
Làm chủ CNVT đồng nghĩa với việc nắm giữ nhiều công nghệ then chốt có giá trị ứng dụng cao trong đời sống. Chẳng hạn, công nghệ viễn thám sử dụng vệ tinh quan sát trái đất giúp cảnh báo bão, lũ, ngập lụt và các hiện tượng cực đoan một cách kịp thời, hỗ trợ cơ quan chức năng lập kế hoạch ứng phó, giảm tổn thất về người và tài sản. Theo ước tính quốc tế, vận hành đầy đủ hệ thống vệ tinh quan sát trái đất có thể giúp giảm tới 10% thiệt hại kinh tế do thiên tai mỗi năm. Trong lĩnh vực viễn thông, CNVT mở ra khả năng phủ sóng internet vệ tinh-giải pháp mang internet đến vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nơi khó triển khai hạ tầng mặt đất hoặc thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai.
Ở Việt Nam, CNVT không còn là khái niệm xa lạ. Theo PGS, TS Phạm Anh Tuấn, Tổng giám đốc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam), nước ta đã nghiên cứu ứng dụng viễn thám từ thập niên 1980, song việc làm chủ công nghệ vệ tinh chỉ thực sự bắt đầu từ năm 2006, khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 137/2006/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ đến năm 2020”. Đến nay, Việt Nam đã phóng thành công nhiều vệ tinh như: VINASat-1 (2008), VINASat-2 (2012), VNREDSat-1 và PicoDragon (2013), MicroDragon (2019) và NanoDragon (2021). Đặc biệt, vệ tinh radar LOTUSat-1, vệ tinh quan sát trái đất đầu tiên của Việt Nam đã hoàn tất chế tạo, sẵn sàng phóng lên quỹ đạo. Những thành tựu này tạo nền tảng kỹ thuật, vận hành cho giai đoạn phát triển tiếp theo.
|
| Hoạt động thử nghiệm vệ tinh của Trung tâm Vũ trụ Việt Nam tại Nhật Bản. Ảnh do Trung tâm Vũ trụ Việt Nam cung cấp |
Tuy vậy, theo các chuyên gia, CNVT Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều thách thức: Cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành chưa thật hiệu quả; thiếu chiến lược dài hạn, luật chuyên ngành và bộ chuẩn kỹ thuật dùng chung dẫn đến đầu tư còn dàn trải, thiếu liên thông. Hạ tầng kỹ thuật tuy đã được đầu tư nhưng còn khiêm tốn; đội ngũ chuyên gia, đặc biệt là kỹ sư hệ thống và tổng công trình sư vẫn mỏng, chưa có chuẩn kỹ năng nghề và cơ chế đãi ngộ phù hợp. Ngoài ra, nghiên cứu, phát triển CNVT đòi hỏi nguồn vốn lớn, thời gian thu hồi dài, rủi ro cao, là thách thức không nhỏ với các đơn vị trong nước.
Đòn bẩy chính sách cho công nghệ vũ trụ
Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến phát triển CNVT, thể hiện rõ trong các chính sách KHCN. Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã nêu rõ nhiệm vụ nghiên cứu, ứng dụng KHCN trong khai thác, phát triển không gian vũ trụ. Quyết định số 1131/QĐ-TTg ngày 12-6-2025 về danh mục công nghệ chiến lược xác định công nghệ hàng không vũ trụ là một trong 11 nhóm công nghệ trọng điểm. Bên cạnh đó, Nghị quyết số 193/2025/QH15 của Quốc hội về thí điểm cung cấp dịch vụ viễn thông sử dụng công nghệ vệ tinh quỹ đạo tầm thấp cũng mở ra hành lang pháp lý thúc đẩy phát triển lĩnh vực này.
|
| Hoạt động lắp ráp vệ tinh của Trung tâm Vũ trụ Việt Nam. Ảnh do Trung tâm Vũ trụ Việt Nam cung cấp |
Về nhân lực và hạ tầng, Trung tâm Vũ trụ Việt Nam đã hình thành lực lượng nòng cốt thông qua các chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ công nghệ vệ tinh tại Nhật Bản, kết hợp đào tạo với thực hành thiết kế, tích hợp, thử nghiệm và vận hành vệ tinh. Trung tâm cũng hợp tác với Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học KHCN Hà Nội, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông... để đào tạo nhân lực CNVT ở bậc đại học và sau đại học. Đội ngũ này trực tiếp tham gia các dự án vệ tinh, trạm mặt đất, nền tảng dữ liệu, từng bước hình thành lớp kỹ sư hệ thống, tổng công trình sư cho tương lai.
Về hạ tầng, Trung tâm đã hoàn thành nhiều công trình trọng yếu như trạm thu-xử lý dữ liệu vệ tinh, cơ sở tích hợp-thử nghiệm vệ tinh và gần đây là Bảo tàng Vũ trụ Việt Nam (khai trương tháng 8-2025), góp phần phổ biến tri thức, thúc đẩy hệ sinh thái dữ liệu vệ tinh kết nối với hạ tầng dữ liệu quốc gia.
Thêm lực đẩy từ khối doanh nghiệp tư nhân
Cơ chế, chính sách đã có; nhân lực, hạ tầng bước đầu được hình thành, song để CNVT Việt Nam cất cánh, cần chọn đúng hướng đi. Tổng giám đốc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam Phạm Anh Tuấn nhận định: “Việt Nam chỉ có thể rút ngắn khoảng cách nếu bắt đầu ngay, chọn đúng hướng và kiên trì theo đuổi”. Hướng đi phù hợp là phát triển từ nhỏ đến lớn, tập trung vệ tinh cỡ nhỏ, quỹ đạo thấp, đồng bộ hệ thống trạm điều khiển-thu dữ liệu, nâng cao năng lực tích hợp, thử nghiệm và khai thác dữ liệu. Đây cũng là xu thế chung của thế giới: Vệ tinh nhỏ, vòng đời ngắn, tiêu chuẩn mở, chi phí hợp lý, tạo cơ hội cho các nước đang phát triển nếu biết chọn cấu phần cốt lõi để làm chủ. Theo ông Phạm Anh Tuấn, lộ trình khả thi là xây dựng cụm vệ tinh nhỏ quan sát trái đất trong 10-20 năm tới, gắn với nhu cầu quốc gia về giảm thiên tai, chống biến đổi khí hậu, nông nghiệp, môi trường, hạ tầng và biển, đảo. Trước mắt có thể áp dụng cơ chế mua dịch vụ theo sứ mệnh, ưu tiên nhiệm vụ mang lại hiệu quả dân sinh rõ rệt, đồng thời đầu tư có trọng điểm vào năng lực trong nước, chuẩn hóa dữ liệu, đưa dữ liệu viễn thám thành dữ liệu quốc gia và từng bước nội địa hóa sản phẩm Việt Nam có thể làm tốt.
Gần đây, doanh nhân Phạm Nhật Vượng đã thành lập Công ty Cổ phần VinSpace, hoạt động trong 6 lĩnh vực, trong đó có sản xuất máy bay, tàu vũ trụ và vệ tinh viễn thông. Sự tham gia của khu vực tư nhân cho thấy sức hấp dẫn của ngành công nghiệp vũ trụ, đồng thời mở thêm động lực mới để lĩnh vực này phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới






.png)













