Bảo hiểm thất nghiệp: Hưởng xứng đáng với mức đóng
Quỹ bảo hiểm (BH) thất nghiệp hoạt động dựa trên nguyên tắc đóng - hưởng; người lao động (NLĐ) đóng cao thì mức hưởng sẽ cao. Do đó, không tăng mức đóng nhưng muốn tăng mức hưởng trợ cấp thất nghiệp là không khả thi...
Lao động làm thủ tục hưởng chính sách BH thất nghiệp.
Đóng - hưởng phải đảm bảo khả năng cân đối quỹ
Chính sách BH thất nghiệp được thực hiện từ năm 2009 và hết năm 2024, cả nước có 16,093 triệu người tham gia BH thất nghiệp, đạt khoảng 34,18% dân số trong độ tuổi lao động. Nếu như năm 2010 (năm đầu tiên chi trả trợ cấp thất nghiệp - TCTN), số lao động được hưởng TCTN khoảng 150.000 người thì đến năm 2024, số hưởng chế độ đã tăng hơn 6 lần (hơn 923.000 người). Từ năm 2010 đến hết năm 2024, tổng số người được chi trả TCTN đạt gần 10,7 triệu người, trung bình hơn 700.000 người/năm.
Thực tế cho thấy, BH thất nghiệp đã trở thành chính sách rất quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội của nước ta. Trong số các chế độ của BH thất nghiệp, TCTN được đánh giá cao hơn cả về tính thiết thực khi giúp NLĐ thất nghiệp có nguồn thu nhập hằng tháng để duy trì cuộc sống trước khi tìm việc mới. Tuy nhiên, TCTN đang có hạn chế lớn, đó là mức hưởng thấp, chưa đủ bù đắp cho thu nhập của NLĐ khi họ nghỉ việc.
Trao đổi về vấn đề này, ông Trần Tuấn Tú - Trưởng Phòng BH thất nghiệp (Cục Việc làm - Bộ Nội vụ) cho biết, quỹ BH thất nghiệp hoạt động dựa trên nguyên tắc đóng - hưởng. NLĐ đóng nhiều thì hưởng nhiều. Do đó, việc xác định mức đóng và mức hưởng phải dựa trên sự cân đối của quỹ.
“Chúng ta đang hướng tới việc đóng BH thất nghiệp dựa trên thu nhập thực tế, nhưng hiện tại, mức đóng chủ yếu dựa trên tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội, thường liên quan đến lương tối thiểu vùng và các khoản phụ cấp lương, nên bình quân tiền lương làm cơ sở đóng vào quỹ BH thất nghiệp còn thấp”, ông Trần Tuấn Tú lý giải.
Cũng theo ông Tú, bình quân nền tiền lương đóng BH thất nghiệp là 6 triệu đồng/tháng chưa phản ánh thu nhập thực sự của nhiều NLĐ, trong khi mức hưởng 60% của nền tiền lương đóng này không phải là tỷ lệ thấp. Trong xây dựng chính sách, điều tối kỵ là cắt giảm quyền lợi hiện có của người tham gia, đồng thời lại gia tăng các nghĩa vụ hoặc quy định ràng buộc đối với họ. “Hiện nay, nếu không tăng mức đóng mà lại muốn tăng mức hưởng thì không khả thi”, ông Tú nhấn mạnh.
Đối với nhóm công chức, ông Tú cho rằng, nếu chuyển từ chế độ biên chế suốt đời sang hợp đồng lao động, hình thức tham gia BH thất nghiệp cũng sẽ thay đổi. Lúc đó, mối quan hệ lao động sẽ được xác lập bằng hợp đồng lao động, có sự tham gia và chấm dứt rõ ràng. Với trường hợp này, Nhà nước vẫn là người sử dụng lao động và có trách nhiệm đóng BH thất nghiệp cho NLĐ của mình.
Ông Trần Tuấn Tú khẳng định, nếu không tăng mức đóng mà lại muốn tăng mức hưởng thì không khả thi.
Còn hiện nay, trong bối cảnh Trung ương đang thực hiện chủ trương sắp xếp đơn vị hành chính, số cán bộ, công chức dôi dư là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, BH thất nghiệp là chính sách mang tính ngắn hạn với nguyên tắc cốt lõi là chia sẻ rủi ro và đóng - hưởng. Vì vậy, chỉ những NLĐ có đóng BH thất nghiệp thì mới được hưởng.
Cán bộ, công chức hiện nay không thuộc đối tượng tham gia BH thất nghiệp nên sẽ không được hưởng BH thất nghiệp khi nghỉ việc. Do đó, nếu các đối tượng này nghỉ việc, họ sẽ được hưởng trợ cấp thôi việc theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. Tuy nhiên, đối với NLĐ làm việc theo hợp đồng lao động, tức những người này có tham gia đóng BH thất nghiệp thì khi mất việc do các trường hợp này, đương nhiên họ sẽ được hưởng BH thất nghiệp theo quy định.
Chính sách cần linh hoạt hơn
Ngoài bất cập về mức đóng, điều kiện hưởng TCTN cũng đang bộc lộ bất cập. Chẳng hạn như quy định đã đóng BH thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đối với NLĐ đã ký hợp đồng xác định thời hạn hoặc không xác định thời hạn; đã đóng BH thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động đối với NLĐ ký hợp đồng theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng.
Theo chia sẻ của ông Bùi Sỹ Lợi - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội, chính sách BH thất nghiệp cần được điều chỉnh theo xu hướng tối đa hóa quyền lợi cho NLĐ, trên cơ sở cân đối hợp lý nguồn lực của quỹ. Đồng thời, cần xem lại quy định mức hưởng BH thất nghiệp tối đa 12 tháng. Bởi, nguyên tắc có đóng - có hưởng phải được thực hiện công bằng. NLĐ đóng càng lâu thì phải được hưởng tương xứng, không thể cào bằng tất cả.
“Việc ấn định cứng 12 tháng là không hợp lý và chưa phản ánh đúng mức độ đóng góp dài hạn của nhiều NLĐ - đặc biệt là nhóm công nhân, viên chức, NLĐ có thời gian làm việc hàng chục năm”, ông Lợi nói.
Cũng theo ông Lợi, thay vì giới hạn thời gian nhận trợ cấp, thời gian hưởng nên được tính theo số năm đóng BH thất nghiệp. Ví dụ, mỗi năm đóng được tính tương ứng với 1 tháng trợ cấp. NLĐ có 15 năm tham gia có thể được hưởng 15 tháng trợ cấp thay vì chỉ 12 tháng như quy định hiện hành. Cách tính này vừa đảm bảo công bằng, vừa khuyến khích NLĐ tham gia BH thất nghiệp lâu dài, đồng thời tăng niềm tin vào chính sách an sinh.