Bộ Tài chính tổng hợp, tiếp thu ý kiến sửa đổi quy định quản lý quỹ đầu tư
Số lượng lớn ý kiến đã được Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán Nhà ước (UBCKNN) tiếp thu, làm rõ trong Bản tổng hợp ý kiến đối với Dự thảo Thông tư sửa về hoạt động và quản lý quỹ đầu tư chứng khoán.
Bộ Tài chính, UBCKNN vừa đăng tải công khai Bản tổng hợp ý kiến, tiếp thu, giải trình ý kiến góp ý đối với Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 98/2020/TT-BTC ngày 16/11/2020, hướng dẫn hoạt động và quản lý quỹ đầu tư chứng khoán.
Theo UBCKNN, việc lấy ý kiến được thực hiện theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Tổng cộng có 98 cơ quan, tổ chức được lấy ý kiến, trong đó 32 ý kiến bằng văn bản và thư điện tử được gửi về; 6 tổ chức thống nhất hoàn toàn với dự thảo và 26 tổ chức có ý kiến góp ý cụ thể vào các nội dung của Thông tư. Các ý kiến tập trung chủ yếu vào khung pháp lý cho quỹ đầu tư công cụ thị trường tiền tệ, quỹ trái phiếu hạ tầng, quỹ mở, quỹ chỉ số, quản lý thanh khoản và phân phối chứng chỉ quỹ.
|
| Nhà đầu tư nước ngoài trao đổi với Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng bên lề Hội nghị "Ngành Quỹ trong tiến trình phát triển thị trường chứng khoán và thu hút dòng vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam" do UBCKNN tổ chức tháng 10/2025. |
Đối với quỹ đầu tư công cụ thị trường tiền tệ, nhiều ý kiến từ VPBankS, KB Việt Nam, Standard Chartered Bank và các công ty quản lý quỹ đề nghị làm rõ khái niệm “tài sản có thu nhập cố định” và cơ cấu danh mục đầu tư. Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính đã làm rõ danh mục tài sản, bổ sung trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu doanh nghiệp niêm yết, đồng thời giữ tỷ lệ đầu tư tối thiểu 80% giá trị tài sản ròng nhằm đảm bảo tính thanh khoản, phù hợp với thông lệ quốc tế. Một số đề xuất về kéo dài kỳ hạn đầu tư, điều chỉnh tuổi nợ bình quân gia quyền (WAL) và thời gian đáo hạn bình quân gia quyền (WAM) cũng được tiếp thu theo hướng nới giới hạn WAL lên 240 ngày và WAM lên 120 ngày, tạo dư địa linh hoạt hơn cho hoạt động quản lý quỹ.
Với quỹ đầu tư trái phiếu hạ tầng, các ý kiến từ Dai-ichi, PVI, VBF và một số công ty chứng khoán xoay quanh mô hình quỹ, danh mục đầu tư và hạn mức đầu tư. Bộ Tài chính giữ định hướng quỹ trái phiếu hạ tầng là quỹ đóng huy động vốn đại chúng, nhằm đảm bảo quy mô vốn ổn định cho đầu tư dài hạn, đồng thời làm rõ khái niệm trái phiếu phát triển hạ tầng gắn với các dự án PPP hoặc dự án đầu tư công. Các đề xuất nới hạn mức đầu tư hoặc mở rộng sang mô hình quỹ mở, quỹ thành viên được cơ quan soạn thảo giải trình trên cơ sở tuân thủ Luật Chứng khoán 2019 và mục tiêu quản lý rủi ro.
Đối với quỹ mở, nhóm ý kiến lớn tập trung vào điều kiện đầu tư trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ, đặc biệt là yêu cầu về xếp hạng tín nhiệm. Trên cơ sở góp ý của Vietcombank, VinaCapital, Manulife, SCB và nhiều đơn vị khác, Bộ Tài chính đã điều chỉnh ngưỡng xếp hạng tín nhiệm theo hướng phù hợp hơn với thực tiễn thị trường Việt Nam, đồng thời quy định rõ thời hạn hiệu lực của kết quả xếp hạng. Đáng chú ý, thời hạn buộc bán trái phiếu không còn đáp ứng yêu cầu xếp hạng tín nhiệm được gia hạn lên 3 tháng, thay vì 1 tháng như dự thảo ban đầu, nhằm giảm áp lực thanh khoản cho quỹ.
Về quản lý thanh khoản của quỹ mở, các công ty quản lý quỹ đề nghị làm rõ cách tính và phạm vi áp dụng mức phòng vệ thanh khoản. Bộ Tài chính đã tiếp thu theo hướng quy định cụ thể cách tính trên giá trị tài sản ròng trên một chứng chỉ quỹ, đồng thời cho phép từng quỹ xây dựng chính sách riêng phù hợp với đặc thù hoạt động; quỹ ETF không thuộc đối tượng áp dụng do cơ chế vận hành khác biệt.
Liên quan đến phân phối chứng chỉ quỹ, nhiều ý kiến đề xuất nới quy định về khuyến mại và trách nhiệm của đại lý phân phối. Bộ Tài chính thống nhất cho phép tặng quà bằng hiện vật với giá trị tối đa 1 triệu đồng, không cho phép khuyến mại bằng tiền, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu bảo đảm hoạt động phân phối không mang tính mời chào, lôi kéo nhà đầu tư, phù hợp với thông lệ quốc tế và đặc thù sản phẩm tài chính.
Việc công bố đầy đủ Bản tổng hợp ý kiến, tiếp thu và giải trình cho thấy nỗ lực của Bộ Tài chính và UBCKNN trong tăng cường minh bạch, đối thoại chính sách, đồng thời hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động quản lý quỹ theo hướng tiệm cận thông lệ quốc tế nhưng vẫn phù hợp với điều kiện thực tiễn của thị trường vốn Việt Nam.



















