NHNN đối phó với áp lực tỷ giá, lạm phát và thanh khoản dư thừa ra sao?
Mặc dù nền kinh tế trong nước đang có những chuyển biến cải thiện. Tuy nhiên, những thay đổi của thị trường quốc tế đang đẩy các thị trường mới nổi và đang phát triển như Việt Nam đứng trước áp lực về lạm phát và tỷ giá.
Theo báo cáo nhận định mới đây của Chứng khoán Rồng Việt (VDSC), VDSC cho rằng áp lực về lạm phát chưa quá lớn trong khi diễn biến trên thị trường quốc tế đang tạo nên áp lực lớn lên tỷ giá.
Cụ thể, thông điệp sau cuộc họp tháng 9 của Fed đã tạo ra một bước chuyển đối với kỳ vọng về chính sách tiền tệ của Mỹ trong năm 2024. Lãi suất sẽ duy trì ở mức cao trong thời gian lâu hơn kết hợp với triển vọng kinh tế Mỹ được kỳ vọng hạ cánh mềm như trong kịch bản dự báo của Fed đã dẫn dắt chỉ số đồng USD lập kỷ lục mới.
Đáng chú ý, cả giá dầu và chỉ số đồng USD đều trở về mức cao nhất vào thời điểm tháng 11/2022. Những diễn biến trong vài năm trở lại đây đặt ra dấu hỏi về quan hệ nghịch chiều giữa sức mạnh đồng USD và giá hàng hoá (đặc biệt là giá dầu thô) đã không còn hiệu lực như trước.
Ảnh minh họa. |
Trong một bối cảnh kinh tế toàn cầu suy giảm, quyền lực kinh tế Mỹ gia tăng và dòng vốn dịch chuyển về môi trường lãi suất cao, các chuyên gia phân tích của VDSC cho rằng diễn biến thuận chiều của giá hàng hoá và chỉ số USD Index (DXY) đẩy các thị trường mới nổi và đang phát triển như Việt Nam đứng trước hai áp lực về lạm phát và tỷ giá.
"Nếu như áp lực lạm phát trong tầm kiểm soát thì áp lực mất giá tiền đồng vẫn rất lớn, đòi hỏi phản ứng quyết liệt hơn từ NHNN", VDSC nhận định.
Về diễn biến lạm phát trong nước, theo VDSC, trong tháng 9 vừa qua, chỉ số giá tiêu dùng trong nước tăng 1,1%, là mức tăng cao nhất kể từ tháng 2/2021. Tuy nhiên, VDSC cho rằng vẫn có cơ sở để không quá lo lắng về diễn biến lạm phát trong nước.
Nguyên nhân, tháng 9, lạm phát cơ bản tăng 3,8% so với cùng kỳ và tăng 0,26% so với tháng trước, tuy nhiên lạm phát cơ bản vẫn đang trong xu hướng giảm từ đầu năm đến nay. Bên cạnh đó, yếu tố tăng giá đẩy lạm phát chung trong tháng 9 tăng cao ngoài việc giá xăng dầu và giá gạo tăng thì còn có thêm ảnh hưởng của chi phí giáo dục, vốn có tính mùa vụ và mức tăng cao trong tháng 9 sẽ không tiếp diễn trong các tháng tiếp theo.
Thêm nữa, xu hướng giảm gần đây của giá gạo thế giới có thể khiến đà tăng của giá gạo trong nước chững lại, đồng thời thị trường gạo vẫn phụ thuộc vào biến số là chính sách xuất khẩu gạo của Ấn Độ, nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới.
Ngoài ra, nhìn về sức cầu trong nước, VDSC cho rằng, lạm phát do cầu kéo trong giai đoạn hiện tại là không đáng kể. Dựa vào các lập luận trên, lạm phát cả năm 2023 vẫn ở mức 3,5 - 3,8%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu 4,5% của Chính phủ.
Đối với tỷ giá, hiện NHNN cũng gặp nhiều áp lực và thách thức không nhỏ. Nhất là thông điệp sau cuộc họp của Fed vào tháng 9/2023 đã tạo ra bước chuyển đối với kỳ vọng về chính sách tiền tệ của Mỹ trong năm 2024. Theo đó, lãi suất sẽ duy trì ở mức cao trong thời gian lâu hơn, kết hợp với triển vọng kinh tế Mỹ được kỳ vọng hạ cánh mềm như trong kịch bản dự báo của Fed đã dẫn dắt chỉ số USD lập kỷ lục mới.
Theo các chuyên gia tài chính, nếu áp lực lạm phát trong tầm kiểm soát thì áp lực mất giá tiền đồng vẫn rất lớn, đòi hỏi phản ứng quyết liệt hơn từ NHNN. Do đó, động thái NHNN đã hút ròng khoảng 110,7 nghìn tỷ đồng trên thị trường mở qua phát hành tín phiếu NHNN từ sau cuộc họp của Fed cho thấy, NHNN đã và đang tìm mọi biện pháp để ổn định tỷ giá và lạm phát.
Hiện nay, lãi suất tín phiếu đang tăng dần qua các phiên đấu thầu. Trong đó, phiên 4/10 là 1,3%/năm với khối lượng trúng thầu là 10 nghìn tỷ đồng. Đồng thời, lãi suất liên ngân hàng cũng đã nhích lên, tại ngày 3/10, lãi suất cho vay qua đêm là 0,74%/năm, tăng 0,55 điểm phần trăm so với cuối tháng 9.
Trong công bố mới nhất, NHNN cũng đã cho biết, tăng trưởng tín dụng tính đến cuối tháng 9 đạt 6,92% so với đầu năm. Diễn biến trên hàm ý hai điều: Thứ nhất, chênh lệch lãi suất USD/VND thu hẹp lại là điều tích cực nhằm giảm bớt áp lực đối với tỷ giá. Thứ hai, cầu tín dụng phục hồi như kỳ vọng trong các tháng cuối năm. Theo đó, nhiều ý kiến cho rằng, tỷ giá sẽ biến động quanh vùng 24.500 đồng/USD và giảm trở lại vào cuối năm.
Bên cạnh áp lực tỷ giá và lạm phát, thanh khoản dư thừa cũng là áp lực đối với NHNN. Bởi sau các đợt giảm lãi suất huy động liên tục, lãi suất huy động bình quân của khối NHTMCP nhà nước hiện đã về mức tương đương giai đoạn COVID-19 ở các kỳ hạn ngắn 1 - 3 tháng và kỳ hạn dài từ 12 tháng trở lên, nhưng vẫn cao hơn 45 điểm cơ bản so với mặt bằng thấp của giai đoạn COVID-19 ở các kỳ hạn 3 - 6 tháng.
Trong khi đó, lãi suất huy động của khối NHTMCP tư nhân cao hơn từ 50 - 70 điểm cơ bản đối với kỳ hạn 1 - 9 tháng và chỉ cao hơn từ 15 - 20 điểm cơ bản ở các kỳ hạn 12 tháng trở lên. Thế nhưng, đầu ra của các ngân hàng vẫn chậm.
Nhiều ý kiến chuyên gia tài chính cho rằng, lãi suất huy động đã về vùng đáy và khó giảm thêm trong quý 4/2023 khi lãi suất thực đang dần thu hẹp, lạm phát tăng lên và tín dụng tăng tốc hơn trong quý 4. Theo đó, điểm đáy của lãi suất huy động sẽ kích hoạt tâm lý vay đầu tư và tiêu dùng trở lại nên khả năng tín dụng sẽ tăng trưởng trong cuối năm.
Tuy nhiên, với chính sách cho vay vẫn không đổi, việc các doanh nghiệp, cá nhân muốn tiếp cận vốn vay cũng không phải dễ dàng. Do đó, ngành ngân hàng đang phối hợp đồng bộ để đưa ra cả giải pháp, từ cơ chế chính sách, tổ chức thực hiện chính sách đến công tác cải cách hành chính để hỗ trợ tăng trưởng tín dụng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Mai Hương