Đổi mới mạnh mẽ nhận thức, chính sách phát triển văn hóa trong bối cảnh mới
Trong bối cảnh chuyển đổi sâu sắc của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa trong nước cũng như toàn cầu, Dự thảo Báo cáo chính trị lần này đã khẳng định một bước tiến quan trọng về nhận thức của Đảng ta đối với vai trò của văn hóa, con người.
Luận điểm “văn hóa, con người là nền tảng, nguồn lực, sức mạnh nội sinh và là động lực to lớn, hệ điều tiết sự phát triển xã hội bền vững” không chỉ là một tuyên ngôn chính trị mà còn là một định hướng chiến lược để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững trong thời đại mới.
Một chuyển biến nhận thức có tính bước ngoặt của Đảng về văn hóa
Trong Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV, Đảng ta nhấn mạnh quan điểm chỉ đạo: “Bảo đảm phát triển văn hóa ngang tầm với chính trị, kinh tế, xã hội, để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, sức mạnh nội sinh, động lực to lớn thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững đất nước”. Đây là một bước ngoặt nhận thức mang tính hệ hình trong tư duy phát triển-chuyển từ cái nhìn “hỗ trợ, phụ trợ” sang vai trò “điều tiết, kiến tạo”.
|
| Ảnh minh họa: Báo Nhân Dân |
Nếu như ở các kỳ đại hội trước, văn hóa thường được nhấn mạnh như nền tảng tinh thần và mục tiêu hướng đến của sự phát triển thì ở kỳ đại hội này, vai trò của văn hóa đã được mở rộng theo chiều sâu lẫn chiều rộng. Văn hóa không chỉ còn là “động lực” và “mục tiêu” mà nay đã được xác lập là “hệ điều tiết cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”. Cụm từ “hệ điều tiết” mang ý nghĩa văn hóa trở thành một hệ quy chiếu, một cơ chế nội sinh điều chỉnh các quá trình phát triển.
Tại Việt Nam, sau nhiều thập kỷ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, chúng ta cũng đã chứng kiến những hệ quả của việc phát triển thiếu bền vững: Sự xuống cấp của môi trường sống, phân hóa giàu nghèo, sự mỏi mệt về tinh thần và lối sống thực dụng len lỏi trong đời sống xã hội. Tất cả những điều đó đặt ra một đòi hỏi cấp thiết: Phải phát triển kinh tế nhưng không làm tổn hại đến con người, đến các giá trị cốt lõi-và đó là lúc văn hóa cần trở lại, không phải trong vai trò người đồng hành mà là người dẫn dắt.
Dự thảo Báo cáo chính trị đã nhìn thấy rõ xu thế đó. Việc đặt văn hóa “ngang tầm với chính trị, kinh tế, xã hội” không chỉ đơn thuần là nâng vị thế một lĩnh vực. Nó phản ánh tư duy tích hợp, tư duy phát triển hệ sinh thái, trong đó văn hóa là hạt nhân tích hợp và điều phối các trục phát triển khác, từ khoa học-công nghệ, giáo dục-đào tạo cho đến an sinh xã hội, môi trường và đổi mới thể chế.
Điểm đặc biệt là những khái niệm như “sức mạnh nội sinh”, “động lực to lớn”, “hệ điều tiết” vốn là những khái niệm xuất phát từ lý luận kinh tế học và quản trị phát triển, thì nay được Đảng ta gắn với lĩnh vực văn hóa, điều đó cho thấy một sự đột phá trong tư duy lý luận. Văn hóa không còn là “vỏ bọc” mềm mại mà là “lõi cứng” trong quá trình hoạch định chính sách.
Hơn thế, việc xác lập vai trò điều tiết của văn hóa còn giúp khép lại tư duy phân mảnh vốn tồn tại trong hoạch định chính sách: Nơi kinh tế lo tăng trưởng, văn hóa lo giáo dục, môi trường lo bảo tồn... mà thiếu một trung tâm gắn kết và điều phối tổng thể. Giờ đây, trung tâm ấy chính là văn hóa-nơi tích tụ của các giá trị, đạo đức, bản sắc, truyền thống, lối sống, ứng xử-tức là nơi định hình cách mà một xã hội phát triển và lựa chọn con đường phát triển.
Chuyển biến tư duy này của Đảng cũng hoàn toàn tương thích với tư duy phát triển toàn diện và bền vững theo các văn kiện quốc tế. Chẳng hạn, Chương trình nghị sự 2030 của Liên hợp quốc không coi văn hóa là một mục tiêu riêng lẻ mà lồng ghép văn hóa vào tất cả 17 mục tiêu phát triển bền vững (SDGs). Hay Khung chính sách văn hóa của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) năm 2022 đã nhấn mạnh: “Văn hóa là động lực và điều kiện tiên quyết để đạt được phát triển bền vững”.
Ở phương diện lý luận và thực tiễn, điều này khẳng định một cách nhất quán rằng phát triển bền vững không thể đạt được nếu thiếu nền tảng văn hóa-không thể chỉ dựa vào đổi mới công nghệ hay cải cách thể chế mà phải xuất phát từ hệ giá trị được định hình và trao truyền trong lòng xã hội. Đó là lý do vì sao văn hóa cần được định vị lại, đặt đúng chỗ trong cỗ máy phát triển-không phải là một “trang trí” cho sự tiến bộ mà là “cỗ máy” của chính tiến bộ đó.
Chúng ta đang bước vào kỷ nguyên chuyển đổi mô hình phát triển, từ “tăng trưởng” sang “phát triển bền vững”, từ “kinh tế ưu tiên” sang “con người làm trung tâm”. Và văn hóa chính là công cụ hữu hiệu nhất để thực hiện sự chuyển đổi đó. Trong vai trò là hệ điều tiết, văn hóa giúp thiết lập các giới hạn đạo đức cho phát triển, tạo ra đồng thuận xã hội, khơi dậy khát vọng dân tộc, lan tỏa giá trị tích cực và giữ cho đất nước không chệch khỏi quỹ đạo phát triển bền vững.
Chuyển biến nhận thức này cũng đặt ra yêu cầu mới về thể chế hóa vai trò của văn hóa. Văn hóa không chỉ cần một vị trí cao hơn trong các nghị quyết, chiến lược mà còn phải được thể chế hóa trong hệ thống pháp luật, cơ chế phối hợp liên ngành, phân bổ ngân sách và đặc biệt là thiết kế hệ thống chỉ số đo lường hiệu quả đóng góp của văn hóa vào phát triển. Những công cụ như Bộ chỉ số văn hóa 2030 của UNESCO hay khung đánh giá của Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) có thể là những tham chiếu quốc tế quan trọng để Việt Nam xây dựng bộ chỉ số phù hợp với đặc điểm văn hóa của mình.
Một khi văn hóa đã được xác lập là hệ điều tiết phát triển thì đầu tư cho văn hóa không còn là chi phí mà là đầu tư cho ổn định xã hội, cho năng suất nội sinh, cho sự trường tồn của dân tộc. Đây là điểm tựa lý luận và chính trị quan trọng để các nhà hoạch định chính sách mạnh dạn hơn trong phân bổ nguồn lực cho văn hóa, trong thiết kế thể chế cho công nghiệp văn hóa và trong đào tạo, đãi ngộ nguồn nhân lực sáng tạo-những “kiến trúc sư” của hệ điều tiết văn hóa trong kỷ nguyên mới.
Đưa văn hóa trở thành trụ cột nội sinh của phát triển không đơn thuần là một sự tái định vị mang tính lý luận-đó là chiến lược thiết thực cho giai đoạn phát triển mới. Bởi những mô hình phát triển dựa trên khai thác tài nguyên thiên nhiên đang bộc lộ rõ giới hạn và hệ lụy. Trong khi đó, các ngành công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo, du lịch văn hóa, đô thị văn hóa, chuyển đổi số trong văn hóa... đang nổi lên như những ngành công nghiệp sạch, xanh, ít tác động tiêu cực đến môi trường nhưng lại có khả năng tạo ra giá trị gia tăng cao, thúc đẩy tiêu dùng thông minh và đổi mới xã hội. Đây chính là tương lai của một nền kinh tế tri thức-nơi văn hóa không chỉ là nền móng tinh thần mà còn là sản phẩm, là tài nguyên, là tài sản trí tuệ và biểu tượng thương hiệu quốc gia.
Văn hóa là hệ điều tiết phát triển: Từ nhận thức đến chính sách
Một điểm mới mang tính đột phá trong Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV là sự xác quyết vai trò “hệ điều tiết sự phát triển xã hội bền vững” của văn hóa. Từ chỗ xem văn hóa như nền tảng tinh thần của xã hội, động lực nội sinh cho phát triển, đến chỗ khẳng định văn hóa như một hệ thống quản trị các giá trị, điều chỉnh hành vi, định hướng chiến lược phát triển đất nước một cách hài hòa, ổn định và bền vững.
Để văn hóa thực sự trở thành hệ điều tiết như vậy, điều cốt yếu là phải xây dựng được một hệ sinh thái văn hóa lành mạnh và bền vững, trong đó có 3 trụ cột cần được tập trung ưu tiên.
Trước hết, đó là thiết chế văn hóa-nền tảng vật chất và thể chế quan trọng để văn hóa được sáng tạo, lưu giữ và lan tỏa. Cần xây dựng các trung tâm văn hóa đa năng, hiện đại, gắn kết với không gian sáng tạo, công nghệ số, công nghiệp văn hóa để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của người dân trong kỷ nguyên mới.
Thứ hai, là môi trường văn hóa số-không gian đang ngày càng chi phối mạnh mẽ hành vi, tư duy và lối sống của cộng đồng, đặc biệt là giới trẻ. Do đó, cần phát triển hệ sinh thái nội dung số có văn hóa, nuôi dưỡng các giá trị tốt đẹp trên môi trường mạng, đồng thời nâng cao năng lực truyền thông văn hóa, ứng xử có trách nhiệm trong không gian số.
Thứ ba, là thể chế văn hóa-trụ cột cốt lõi để bảo đảm vai trò điều tiết của văn hóa không chỉ dừng ở nhận thức hay khẩu hiệu mà trở thành hành động cụ thể, có thể đo lường, đánh giá và điều chỉnh. Việc xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa, như dự thảo khẳng định, cần được coi là một đột phá chiến lược trong giai đoạn tới.
Chúng ta không thể có một xã hội phát triển hài hòa nếu thiếu những “hệ điều tiết” về mặt giá trị. Chúng ta cũng không thể kỳ vọng vào sự phát triển bền vững nếu thiếu đi những nguyên lý văn hóa nền tảng để cân bằng giữa các mục tiêu tăng trưởng. Và càng không thể vươn mình ra thế giới nếu không có một hệ thống thể chế bảo vệ và khuyến khích sự sáng tạo văn hóa, bảo đảm công bằng văn hóa cho mọi công dân. Đó là lý do vì sao văn hóa cần phải được nhìn nhận như một “hệ sinh thái điều tiết”, không chỉ giúp xây dựng con người có phẩm chất mà còn góp phần xây dựng một quốc gia có bản lĩnh, một dân tộc có khát vọng và một hệ thống chính trị có trách nhiệm với tương lai.
Từ quan điểm đến hành động: Đổi mới mạnh mẽ tư duy phát triển văn hóa
Dự thảo đã khẳng định sự cần thiết phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, thúc đẩy đột phá chiến lược, kiến tạo hệ sinh thái phát triển mới, bảo đảm quan điểm lấy phát triển để ổn định, ổn định để thúc đẩy phát triển và không ngừng nâng cao đời sống, hạnh phúc của nhân dân, trong đó có việc xây dựng, hoàn thiện thể chế phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc-một yêu cầu mang tính mệnh lệnh chính trị trong bối cảnh nhiều địa phương, ngành, lĩnh vực còn xem nhẹ hoặc quản lý văn hóa theo kiểu hành chính hóa, lạc hậu, phi thị trường.
Để văn hóa thực sự là nguồn lực, động lực và hệ điều tiết, chúng ta cần một loạt đột phá về thể chế, chính sách, nguồn lực; triển khai hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa; ban hành Luật Công nghiệp văn hóa; sửa đổi các luật về/liên quan đến văn hóa; thúc đẩy xã hội hóa, hợp tác công-tư trong bảo tồn và phát huy giá trị di sản; đầu tư cho hạ tầng văn hóa, nguồn nhân lực chất lượng cao; gắn văn hóa với công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Việc cần làm hiện nay là chúng ta lượng hóa vai trò của văn hóa thông qua bộ chỉ số phát triển văn hóa quốc gia, tích hợp vào quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội, như cách các nước phát triển đang làm. Chỉ khi văn hóa được hoạch định, đầu tư, quản lý và đánh giá bằng các công cụ chính sách công hiện đại thì quan điểm đúng đắn của Đảng mới thực sự đi vào cuộc sống./.



















