Thông tư quy định về chế độ thông tin, báo cáo công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
Thanh tra Chính phủ vừa ban hành Thông tư số 06/2025/TT-TTCP quy định chế độ thông tin, báo cáo công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng tiêu cực.

Thông tư 06/2025 của Thanh tra Chính phủ gồm 3 chương, 11 điều, quy định về chế độ thông tin, báo cáo công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Ảnh: Hải Anh
Thông tư 06 thay thế Thông tư số 01/2024/TT-TTCP ngày 20/1/2024 của Thanh tra Chính phủ quy định chế độ báo cáo công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và Điều 6 Thông tư số 02/2025/TT-TTCP ngày 25/6/2025 của Thanh tra Chính phủ hướng dẫn thực hiện một số quy định thuộc lĩnh vực quản lý Nhà nước của Thanh tra Chính phủ liên quan đến chính quyền địa phương 2 cấp.
Thông tư 06 gồm 3 chương, 11 điều, quy định về chế độ thông tin, báo cáo công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Thông tư 06 áp dụng đối với Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là UBND cấp tỉnh); cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc UBND cấp tỉnh; UBND xã, phường, đặc khu (sau đây gọi là UBND cấp xã); các cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền và trách nhiệm trong công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Về nguyên tắc báo cáo, Điều 2 của Thông tư nêu rõ, báo cáo phải đầy đủ, chính xác, khách quan, kịp thời. Đúng quy định của pháp luật về thanh tra, tiếp công dân, khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và hướng dẫn tại Thông tư này. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong thu thập, tổng hợp và gửi báo cáo; bảo đảm kết nối, chia sẻ dữ liệu thống nhất với hệ thống thông tin báo cáo của ngành Thanh tra.
Về các loại báo cáo, Điều 3 của Thông tư nêu: Báo cáo định kỳ là báo cáo công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực được thực hiện hằng quý, 6 tháng, 9 tháng và hằng năm.
Báo cáo chuyên đề là báo cáo để đáp ứng yêu cầu thông tin có tính chuyên sâu về một chủ đề thuộc lĩnh vực thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực được thực hiện một hoặc nhiều lần trong một khoảng thời gian nhất định.
Báo cáo đột xuất là báo cáo để đáp ứng yêu cầu thông tin về vấn đề phát sinh bất thường trong các lĩnh vực thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực được thực hiện theo yêu cầu của cơ quan cấp trên hoặc của Thanh tra Chính phủ.
Tại Điều 7 của Thông tư nêu cụ thể về thời gian chốt số liệu, đối tượng thực hiện báo cáo, cơ quan nhận báo cáo và thời hạn gửi báo cáo.
Về đối tượng thực hiện báo cáo, cơ quan nhận báo cáo, thời hạn gửi báo cáo, nội dung tại Điều 7 hướng dẫn, đối với báo cáo định kỳ, UBND cấp xã, các cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc UBND cấp tỉnh và tổ chức có liên quan gửi báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chậm nhất vào ngày 17 của tháng cuối thuộc kỳ báo cáo; UBND cấp tỉnh tổng hợp, duyệt, gửi báo cáo Thanh tra Chính phủ chậm nhất vào ngày 20 của tháng cuối thuộc kỳ báo cáo.
Cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ tổng hợp, duyệt, gửi báo cáo Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ chậm nhất vào ngày 17 của tháng cuối quý thuộc kỳ báo cáo; Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ tổng hợp, duyệt, gửi báo cáo Thanh tra Chính phủ chậm nhất vào ngày 20 của tháng cuối thuộc kỳ báo cáo.
Cơ quan trung ương được tổ chức theo ngành dọc đặt tại tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đồng thời gửi báo cáo đến cơ quan thanh tra và cơ quan quản lý Nhà nước cùng cấp để phục vụ quản lý. Cơ quan thanh tra và cơ quan quản lý Nhà nước cùng cấp không tổng hợp nội dung báo cáo của cơ quan trung ương được tổ chức theo ngành dọc vào báo cáo của mình.
Trong trường hợp cần thiết, Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND cấp tỉnh quy định về thời hạn gửi báo cáo cho từng cấp theo thẩm quyền quản lý nhưng đảm bảo thời hạn gửi báo cáo về Thanh tra Chính phủ chậm nhất vào ngày 20 của tháng cuối thuộc kỳ báo cáo.
Đối với báo cáo chuyên đề, đột xuất: Đối tượng báo cáo, thời hạn gửi báo cáo thực hiện theo yêu cầu của Thanh tra Chính phủ.
Về ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện chế độ báo cáo, Điều 9 của Thông tư nêu, Thanh tra Chính phủ xây dựng, quản lý, vận hành hệ thống thông tin báo cáo điện tử của ngành Thanh tra; đảm bảo hạ tầng kỹ thuật, công nghệ, an toàn, an ninh thông tin phục vụ xây dựng, vận hành hệ thống thông tin báo cáo, chia sẻ dữ liệu theo các quy định của pháp luật.
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh tổ chức triển khai, sử dụng có hiệu quả hệ thống báo cáo điện tử của ngành Thanh tra. Trường hợp cần thiết, Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh chủ động xây dựng hệ thống thông tin báo cáo điện tử đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước của mình và chế độ báo cáo của Thanh tra Chính phủ.


















